Truy cập nội dung luôn

THANH TRA CHÍNH PHỦ

The Government Inspectorate of Vietnam

​Tổng Thanh tra Chính phủ trả lời phỏng vấn về công tác Phòng chống tham nhũng

19/11/2015

Vừa qua, Tổng Thanh tra Chính phủ đã có buổi trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong với 5 câu hỏi xoay quanh vấn đề PCTN hiện nay. Cổng Thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ trân trọng đăng tải toàn văn bài trả lời phỏng vấn này:​

Câu hỏi 1: Năm 2015, các vụ án, vụ việc tham nhũng gây thiệt hại gần 1 nghìn tỷ đồng, 10 nghìn m2 đất. Nhiều Đại biểu Quốc hội đánh giá cao mức độ thu hồi tài sản tham nhũng, song cũng có ý kiến cho rằng, con số này còn nhiều hạn chế khi chỉ thu hồi được hơn 500 tỷ và gần 3 nghìn m2 đất. Xin đồng chí cho biết nguyên nhân của tình trạng này và giải pháp để nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong thời gian tới ?

Thu hồi tài sản tham nhũng và tịch thu tài sản do tham nhũng mà có là hoạt động quan trọng và là một trong những thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng. Thu hồi tài sản tham nhũng nhằm khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng gây ra cho xã hội; lấy lại nguồn lực của Nhà nước, của nhân dân đã bị chiếm đoạt; hạn chế và triệt tiêu động cơ kinh tế của hành vi tham nhũng.

Với nỗ lực của các cấp, các ngành và nhất là các cơ quan chức năng PCTN thì trong những năm gần đây, việc thu hồi tài sản tham nhũng đã được đặc biệt chú trọng, kết quả ngày càng tốt hơn, tỷ lệ thu hồi tài sản năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của công tác PCTN và kỳ vọng của nhân dân.

Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố chủ quan như:

- Một số quan điểm, chủ trương của Đảng về thu hồi tài sản tham nhũng chưa được thể chế hóa kịp thời; các quy định của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng phần lớn mang tính nguyên tắc, quy định trách nhiệm của từng cơ quan và quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chưa rõ ràng; việc nội luật hóa các quy định về thu hồi tài sản theo Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng còn chậm.

- Cơ chế kiểm soát tài sản, kiểm soát thu nhập, quản lý các giao dịch về tài sản còn bất cập. Hệ thống đăng ký tài sản chưa phát triển. Giải pháp minh bạch tài sản, thu nhập nhằm phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp.

­- Công tác phát hiện tham nhũng còn hạn chế, không kịp thời. Không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng chưa chú ý, không kịp thời áp dụng các biện pháp tư pháp, biện pháp khẩn cấp tạm thời: kê biên, tạm giữ, cấm dịch chuyển tài sản, phong tỏa tài khoản của bị can, bị cáo, tổ chức có liên quan v.v...

- Việc xác định tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng hoặc bị thiệt hại do tham nhũng trong nhiều vụ việc rất phức tạp. Nhiều vụ còn có trở ngại từ công tác giám định tư pháp.

Bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân khách quan làm giảm hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng như:

- Tội phạm tham nhũng thuộc nhóm tội có độ ẩn cao cả về hành vi phạm tội và tài sản bị chiếm đoạt. Kẻ phạm tội luôn có xu hướng che dấu, tẩu tán, hợp pháp hóa những tài sản do tham nhũng mà có, kể cả tẩu tán tài sản ra nước ngoài, dẫn đến khó khăn cho việc truy tìm, thu hồi tài sản.

- Nhiều trường hợp, dù cơ quan chức năng sớm phát hiện vụ việc nhưng tội phạm tham nhũng đã sử dụng phần lớn tài sản, tiêu dùng hoang phí, khi bị phát hiện đã không còn khả năng khắc phục hậu quả...

- Tương trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, thời gian thường bị kéo dài và nhiều khi không phải do nguyên nhân từ phía các cơ quan của Việt Nam.

Về giải pháp:

Để có thể thu hồi triệt để tài sản tham nhũng, làm triệt tiêu động cơ kinh tế của tội phạm tham nhũng thì giải lâu dài là phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách, pháp luật có liên quan theo hướng tăng cường quản lý tài sản, thu nhập của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, hạn chế tiêu dùng tiền mặt và mở rộng tương trợ tư pháp quốc tế…

Trước mắt phải tập trung thực hiện ngay các giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc thu hồi tài sản như:

- Chú trọng áp dụng kịp thời các biện pháp phong tỏa, kiểm soát để thu hồi tài sản tham nhũng ngay trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo quy định của pháp luật;

- Tăng cường các hoạt động phòng, chống rửa tiền, tình báo tài chính;

- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác PCTN, thu hồi tài sản tham nhũng; quan tâm đầu tư các phương tiện kỹ thuật, thiết bị cần thiết cho việc theo dõi, truy tìm những tài sản tham nhũng đã bị tẩu tán, che dấu, tẩy rửa.

Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan hiện đang triển khai tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN, trong đó có tổng kết, đánh giá sâu chuyên đề về thu hồi tài sản tham nhũng để chuẩn bị cho việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN, đưa ra những biện pháp mạnh mẽ hơn để nâng cao hiệu quả công tác PCTN nói chung và hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng trong thời gian tới.

        Câu hỏi 2: Tham nhũng còn nhức nhối, diễn ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhưng số vụ tham nhũng bị phát hiện lại giảm trong năm 2015. Thẩm tra báo cáo Ủy ban Tư pháp đề nghị phải nghiêm túc xem xét vấn đề này, còn một số Đại biểu Quốc hội thì cho rằng, điều này chứng tỏ việc chống tham nhũng chưa hiệu quả. Xin hỏi ý kiến của đồng chí về vấn đề này ?

Thông thường, kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng trong một năm được đánh giá thông qua số vụ, số đối tượng có hành vi tham nhũng được phát hiện, xử lý qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và qua các hoạt động tố tụng. Năm nay kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử có giảm, trong khi đó tình hình tham nhũng được nhận định là vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp. Do đó việc Ủy ban Tư pháp đề nghị phải nghiêm túc xem xét vấn đề này và có Đại biểu Quốc hội cho rằng việc chống tham nhũng chưa hiệu quả là cũng vì lý do như vậy.

Việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng năm 2015 giảm do một số nguyên nhân chính sau:

Về nguyên nhân khách quan:

- Có một số vụ án lớn được dư luận quan tâm, cho rằng có dấu hiệu tham nhũng nhưng cơ quan chức năng đang xem xét hoặc bước đầu mới khởi tố bằng những tội danh khác nên theo quy định, các vụ án này chưa được thống kê trong kết quả phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng năm 2015.

- Tội phạm về tham nhũng có xu hướng ngày càng tinh vi theo sự phát triển của kinh tế - xã hội, chủ thể của loại tội này nhìn chung là có học thức, hiểu biết sâu rộng, có địa vị cao trong xã hội, có nhiều mối quan hệ. Đối với những vụ án tham nhũng lớn, nghiêm trọng thường có nhiều đối tượng tham gia, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thông tin khép kín trong phạm vi nhất định, nên khó để phát hiện.

- Các vụ việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn, làm trái nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi nếu xảy ra trong doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước chi phối thì sẽ khởi tổ, điều tra về tội danh tham nhũng. Nhưng do việc đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn trong các doanh nghiệp nhà nước đã thu hẹp phạm vi chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp. Do đó thực tế cơ quan chức năng đã phát hiện những vụ chiếm đoạt tài sản xảy ra trong doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối thì phải xử lý bằng các tội danh như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản...

Về nguyên nhân chủ quan:

- Vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn, trong quá trình xác minh, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm về tham nhũng, áp dụng biện pháp điều tra đối tượng tham nhũng, trong định tội danh, xác định tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng, mức độ thiệt hại. Việc tự phát hiện, tự kiểm tra phát hiện các vụ việc tham nhũng trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị rất kém.

- Công tác giám định tư pháp còn nhiều bất cập, thời hạn giám định quá dài nên khó khăn cho việc khởi tố, kết luận điều tra, thậm chí không truy tố được do không xác định được thiệt hại. Một số cơ quan được trưng cầu giám định từ chối hoặc né tránh; kết luận giám định không chính xác hoặc phải giám định nhiều lần dẫn đến thời hạn điều tra một số vụ án bị kéo dài. Đội ngũ giám định viên, người giám định, tổ chức giám định theo vụ việc tại các bộ, ngành Trung ương, địa phương còn thiếu nên việc trưng cầu gặp khó khăn. Bên cạnh đó, trình chuyên môn của giám định viên trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.

- Việc xác định chủ thể của các tội phạm tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự, trong thực tiễn về nhận thức và áp dụng chưa thống nhất trong cấu thành tội phạm của một số tội danh, dẫn đến khó khăn, chậm chễ trong việc khởi tố, truy tố, xét xử.

Mặc dù kết quả phát hiện tham nhũng có giảm nhưng nếu phân tích sâu một số chỉ số khác thì có thể thấy rõ hơn nỗ lực của các cơ quan chức năng cũng như hiệu quả của công tác chống tham nhũng năm 2015:

 Một là, kết quả phát hiện tham nhũng qua hoạt động thanh tra năm nay tăng hơn nhiều so với năm trước (tăng 85% số vụ, 97,7% số đối tượng), đây cũng là kết quả đầu vào quan trọng tạo cơ sở cho việc tăng cường công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng trong thời gian tới.

Hai là, Mặc dù số vụ án được xét xử giảm nhưng tỷ lệ tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được tuyên án lại tăng hơn so với năm 2014, tỷ lệ án treo tiếp tục giảm. Điều đó thể hiện tính chất của các vụ án đã được giải quyết trong năm nay phức tạp, nghiêm trọng nhiều hơn năm trước.

Cùng là một vụ tham nhũng nhưng vụ án có ít bị can, hành vi phạm tội rõ ràng, ít nghiêm trọng thì việc điều tra, truy tố, xét xử thuận lợi hơn nhiều. Ngược lại, có những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, nhiều bị can, tình tiết phức tạp, gây thiệt hại lớn thì việc xem xét, xử lý có thể khó khăn hơn giải quyết hàng chục vụ án tham nhũng khác.

Ba là, kết quả thu hồi tài sản tham nhũng cũng tăng cao hơn nhiều so với những năm trước. Năm 2015 thu hồi đạt 55,8%, trong khi tỷ lệ này năm năm 2014 là 22,3%, năm 2013 là 10% và trước đó còn thấp hơn.

Tuy vậy thì việc phát hiện, khởi tố, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng năm 2015 giảm so với năm trước là chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của công tác PCTN và kỳ vọng của Quốc hội, nhân dân, nhất là trước thực trạng tham nhũng còn nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội như hiện nay.

          Câu hỏi 3: Báo cáo Quốc hội, Chính phủ cho rằng ngoài tham nhũng vặt đã xuất hiện tình trạng tham nhũng mang tính chất lợi ích nhóm. Xin đồng chí cho biết cụ thể hơn về nội dung này? Tham nhũng lợi ích nhóm nguy hiểm và gây nguy cơ như thế nào?

Trong báo cáo của Chính phủ về công tác PCTN năm 2015 có đánh giá: “Đã xuất hiện tình trạng tham nhũng có tính lợi ích nhóm trong một số lĩnh vực”. Thực ra đây không hoàn toàn là nhận định mới mà ngay từ năm 2014, khi tổng kết công tác PCTN, tại Báo cáo số 80 -/BCBCĐTW ngày 15/5/2014 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN cũng đã nêu lên nhận định này.

Bước sang năm 2015, Chính phủ tiếp tục nhận thấy những biểu hiện như vậy trên một số lĩnh vực nên đã thẳng thắn đưa vào báo cáo trình Quốc hội. “Tham nhũng có tính lợi ích nhóm” trong năm 2015 có những biểu hiện cụ thể như:

Một số vụ án tham nhũng gồm nhiều đồng phạm, ở nhiều vị trí công tác khác nhau trong đơn vị, cùng thống nhất thực hiện hành vi tham nhũng để lấy tiền, tài sản chi dùng chung cho các hoạt động của đơn vị, thậm chí là chi cho hoạt động của các tổ chức, đoàn thể, phúc lợi chung cho cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị và qua đó những người thực hiện hành vi tham nhũng cũng vụ lợi cá nhân về vật chất và cả tinh thần. Ví dụ cụ thể nhất là vụ Ban quản lý dự án đường sắt vừa được đưa ra xét xử mới đây.

Theo báo cáo của ngành ngân hàng, năm 2015 cũng đã phát hiện một số thành viên Hội đồng quản trị của ngân hàng có lợi ích nhóm, tham gia góp vốn, mua cổ phần để nắm giữ vị trí chủ chốt của các tổ chức tín dụng cổ phần; lợi dụng vị trí để cho vay các công ty sân sau, công ty mà mình có lợi ích liên quan...

 Tham nhũng có lợi ích nhóm thường là những vụ tham nhũng nghiêm trọng và phức tạp. Loại tham nhũng này rất khó phát hiện vì có sự gắn kết, đồng thuận của nhóm lợi ích.

Trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thì nó làm triệt tiêu các công cụ kiểm tra, giám sát nội bộ, lấn át, thậm chí là vô hiệu hoá các thiết chế dân chủ cơ sở và vai trò của các tổ chức, đoàn thể, cán bộ, công chức, viên chức.

Nguy hiểm nhất là việc các đối tượng tham nhũng có tính lợi ích nhóm lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tạo ra những cơ chế, chính sách hoạt động để vụ lợi cho một nhóm, trong đó có lợi ích của bản thân mình mà bất chấp việc phương hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích chung của xã hội.

Tham nhũng có tính lợi ích nhóm nếu phát triển sẽ làm gia tăng tính chất nguy hiểm của hành vi tham nhũng, lũng đoạn hoạt động quản lý và sẽ là mối nguy hại, thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân.

          Câu hỏi 4: Có Đại biểu Quốc hội cho rằng, hiện chúng ta mới chỉ phòng ngự tham nhũng và phải đến năm 2018 mới có thể phản công. Tổng Thanh tra nhìn nhận thế nào về việc này? Liệu năm 2018 có phản công được và chúng ta dựa vào các giải pháp đột phá gì để đẩy lùi tham nhũng?

          “Phòng ngự” và “phản công” là một cách hình tượng hóa rất sát với mục tiêu PCTN đã được Chính phủ đề ra trong Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 là “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng”.

Qua kết quả đánh giá công tác PCTN thời gian qua, Chính phủ nhận thấy vừa qua chúng ta mới thực hiện được việc ngăn chặn tham nhũng trên một số lĩnh vực. Chưa có nhận định nào thể hiện đã đẩy lùi được tham nhũng. Nếu nhận định như vậy thì chưa có đủ cơ sở lý luận, thực tiễn để minh chứng và chắc chắn là trong thời điểm hiện nay, sẽ chưa nhận được sự đồng thuận của Quốc hội và dư luận xã hội.

Năm 2016 là năm đầu tiên thực hiện Giai đoạn thứ 3 của Chiến lược Quốc gia PCTN đến năm 2020 (giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020). Do đó, để đạt được mục tiêu “từng bước đẩy lùi tham nhũng” thì các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị cùng phải nỗ lực vào cuộc, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược đã đề ra mà một trong đó là việc tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN, xây dựng dự án Luật PCTN sửa đổi trình Quốc hội trong năm 2016.

Tuy nhiên không phải là đợi đến khi có Luật PCTN sửa đổi, dự kiến có hiệu lực thi hành từ năm 2018 thì chúng ta mới có điều kiện và cơ hội để đẩy lùi hay “phản công” tham nhũng. Mà ngay từ bây giờ, phải tiếp tục nỗ lực thực hiện với những giải pháp đồng bộ, bước đi vững chắc thì có thể sớm đạt được kết quả “bước đầu đẩy lùi tham nhũng trên một số lĩnh vực”. Đó chính là những lĩnh vực mà tham nhũng đã được ngăn chặn trong thời gian qua. Tiến tới chúng ta sẽ ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và thực hiện thành công mục tiêu đã đề ra khi kết thúc giai đoạn thứ 3 thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020.

Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải hết sức kiên trì, kiên quyết, thận trọng, không được chủ quan, bởi nếu không nỗ lực thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra thì mục tiêu chung “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng” hay nói theo cách hình tượng hoá của đại biểu quốc hội là “phản công tham nhũng” cũng sẽ khó đạt được vào năm 2020 khi kết thúc kỳ Chiến lược.

Về giải pháp

Kinh nghiệm của nhiều chuyên gia quốc tế về PCTN đã rút ra công thức:

Tham nhũng = Độc quyền + Bưng bít thông tin – Trách nhiệm giải trình

Vậy từ kinh nghiệm quốc tế như vậy thì liệu có công thức phòng, chống tham nhũng phù hợp với điều kiện của Việt Nam hay không ? từ thực tiễn quản lý nhà nước về PCTN thời gian qua, tôi đã tự rút ra cho mình công thức:

PCTN = Hoàn thiện thể chế + Phát huy dân chủ, công khai, minh bạch + Trách nhiệm giải trình

Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả PCTN thì phải tăng cường hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; phát huy dân chủ, mở rộng công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Hoàn thiện thể chế là vừa phải tăng cường rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCTN để hoàn thiện các công cụ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, đồng thời cũng phải hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội để bịt chặt những kẽ hở của pháp luật dễ làm nẩy sinh tham nhũng.

Phát huy dân chủ trong PCTN là việc vừa tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong công tác PCTN; đẩy mạnh công tác phát hiện, xử lý nghiêm tham nhũng thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng và các cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát vừa phải đặc biệt chú trọng, phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của xã hội trong PCTN, nhất là các thiết chế dân chủ trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, ở cơ sở và vai trò của quần chúng nhân dân.

Mở rộng công khai, minh bạch trong PCTN là việc công khai, minh bạch cả quá trình hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách pháp luật; việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính cá biệt; công khai hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và bảo đảm quyền chủ động tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp.

Tăng cường trách nhiệm giải trình trong PCTN là việc bảo đảm các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền luôn phải thực hiện tốt trách nhiệm cung cấp thông tin, giải thích, giải trình, làm rõ các thông tin về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trước Quốc hội, trước nhân dân và ngay trong nội bộ mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị theo quy định của pháp luật.

Trong nhiệm kỳ này, các yêu tố trong công thức PCTN nêu trên đều có những chuyển biến tích cực.

Một là, công tác hoàn thiện thể chế về PCTN tiếp tục được tăng cường như việc ban hành Nghị quyết Trung ương IV khoá XI, Kết luận Hội nghị Trung ương IV Khoá XI, Chỉ thị 33 của Bộ Chính trị về tăng cường kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập; sửa đổi, bổ sung Luật PCTN, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác PCTN, lãng phí... Riêng trong lĩnh vực PCTN, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ cùng với các bộ, ngành liên quan đã ban hành 27 Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư, Thông tư Liên tịch về công tác PCTN. Trên các lĩnh vực của quản lý nhà nước thì số lượng văn bản đã ban hành còn lớn gấp nhiều lần.

Hai là, Dân chủ hoá trong đời sống xã hội tiếp tục được thúc đẩy với việc nhân dân, các tổ chức, đoàn thể tham gia xây dựng Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật quan trọng khác để quản lý đất nước. Các thiết chế giám sát của cộng đồng, phản biện xã hội được tăng cường. Các quyền cơ bản của công dân được đề cao và được pháp luật bảo vệ. Công khai, minh bạch trên các lĩnh vực của đời sống xã hội được mở rộng, nhất là về thủ tục hành chính liên quan đến người dân, doanh nghiệp, việc phân bổ ngân sách nhà nước, chi tiêu, đầu tư công của Chính phủ và các địa phương… Có những lĩnh vực trực tiếp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện nhằm khẩn trương thúc đẩy việc tăng cường công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả hoạt động như thuế, hải quan, tiếp cận điện năng, bảo hiểm xã hội…

Ba là, Trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có chức vụ quyền hạn được tăng cường. Công tác chất vấn, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp có sự chuyển biến rõ nét, đề cao trách nhiệm giải trình của người đứng đầu các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương; tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp theo dõi, giám sát, đánh giá. Các chương trình như “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời”, tiếp xúc cử tri, họp báo định kỳ thông báo rộng rãi các chỉ đạo của Chính phủ, các ngành trên các phương tiện thông tin đại chúng hay việc các Bộ trưởng, Thủ trưởng các ngành, các cấp trực tiếp tiếp công dân, giải đáp thắc mắc, kiến nghị, yêu cầu của nhân dân được thực hiện thường xuyên; quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải giải trình khi người dân, doanh nghiệp, các tổ chức, đoàn thể yêu cầu đã được ban hành và tổ chức thực hiện; quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức, cơ quan báo chí được coi trọng… qua đó đã các ngành, các cấp đã làm rõ, giải trình những vấn đề xã hội quan tâm, tạo thông tin thông suốt, minh bạch, củng cố niềm tin của xã hội.

Qua theo dõi những đánh giá của các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam cho thấy, trong thời gian vừa qua, nhất là sau khi ban hành, triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020, phê chuẩn và tăng cường thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, đề cao vai trò của xã hội trong PCTN, đẩy mạnh công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước, xây dựng quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước... thì Việt Nam được một số tổ chức quốc tế  đánh giá, nhìn nhận môi trường kinh doanh và tình hình tham nhũng có những tiến triển so với giai đoạn trước. Xếp hạng về môi trường kinh doanh thuận lợi được cải thiện, điểm số về cảm nhận tham nhũng đã từng bước xa dần mốc điểm tham nhũng trầm trọng và tiến dần đến mốc điểm trong sạch. Mặc dù sự thay đổi còn chậm hoặc có những năm cũng chưa đạt được sự tiến triển đáng kể, nhưng đó là những tiền đề vững chắc để tạo sự chuyển biến căn bản trong thời gian tới.

Để “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng”, nhiều giải pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, Khóa X, Kết luận Hội nghị Trung ương 5, Khóa XI và Chương trình hành động của Chính phủ về công tác PCTN, lãng phí. Do đó, các cấp, các ngành nhất thiết phải thực hiện tốt và đồng bộ các giải pháp đó. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn thực hiện, cũng cần phải có những ưu tiên nhất định cho những giải pháp trọng tâm, đột phá, phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước trong giai đoạn đó.

Trong giai đoạn thứ nhất thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020, chúng ta đã thực hiện các giải pháp trọng tâm là tập trung nâng cao năng lực phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng; đẩy mạnh xử lý những vụ việc tham nhũng nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân; tập trung rà soát những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng.

Ở giai đoạn thứ hai thực hiện Chiến lược, giải pháp trọng tâm đã được chú trọng thực hiện là hoàn thiện thể chế, tập trung vào những lĩnh vực còn trì trệ, mở rộng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng như kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng thực thi công vụ; hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng.

Do đó, bước sang giai đoạn thứ 3 của Chiến lược, từ năm 2016 đến năm 2020, các cấp, các ngành vẫn phải tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời xác định các nhiệm vụ đột phá mới, phù hợp với tình hình mới mà trọng tâm là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về PCTN và trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và của xã hội trong PCTN; mở rộng công khai, minh bạch, dân chủ hoá trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp; hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và trước những yêu cầu chính đáng của nhân dân.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp và thực hiện tốt các giải pháp trọng tâm, đột phá nêu trên, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu chung là “ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng” khi tổng kết việc thực hiện chiến lược vào năm 2020 theo đúng lộ trình đã đề ra.

          Câu hỏi 5: Hiện mới chỉ có 19 bộ, ngành địa phương thực hiện xong việc đánh giá tình hình tham nhũng năm 2015. Ủy ban Tư pháp đề nghị chấn chỉnh kịp thời đối với các bộ, ngành, địa phương không thực hiện việc đánh giá tình hình tham nhũng năm 2015. Thanh tra Chính phủ có giải pháp gì để thúc đẩy việc đánh giá tình hình tham nhũng của các bộ, ngành địa phương ?

Năm 2015 là năm đầu tiên các bộ, ngành, địa phương tiến hành nhận định tình hình tham nhũng và đánh giá công tác PCTN theo phương pháp mới quy định tại Thông tư số 04/2014/TT-TTCP ngày 18/9/2014 của Thanh tra Chính phủ.

Trước đây việc nhận định, đánh giá của bộ, ngành, địa phương được thực hiện trên cơ sở phương pháp tiếp cận theo hệ thống, tức là tổng hợp, đánh giá trên cơ sở báo cáo, đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, các ngành. Năm nay, việc nhận định, đánh giá theo phương pháp tiếp cận mới, có sự tham gia của cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp.

Theo quy định của Thanh tra Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương phải báo kết quả nhận định tình hình tham nhũng năm 2015 vào tháng 12 hàng năm, nhưng để bảo đảm kịp thời phục vụ kỳ họp thứ 10 của Quốc hội Khoá XIII, Thanh tra Chính phủ đã hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương phải hoàn thành việc nhận định theo phương pháp mới và báo cáo kết quả trong tháng 8/2015. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc nhiều bộ, ngành, địa phương đã không kịp thực hiện vì vừa phải khắc phục những khó khăn trong việc thực hiện phương pháp mới, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ sớm hơn kế hoạch đề ra.

Để thúc đẩy việc nhận định, đánh giá tình hình tham nhũng của các bộ, ngành địa phương, Tổng Thanh tra Chính phủ đã chỉ đạo Cục Chống tham nhũng triển khai đôn đốc, hướng dẫn, cung cấp các công cụ kỹ thuật cần thiết giúp các bộ, ngành, địa phương tiến hành nhận định, đánh giá. Ngay trong tháng 11 năm 2015, Tổ công tác của Thanh tra Chính phủ sẽ tiến hành khảo sát tại các bộ, ngành và một số địa phương, qua đó tiến hành rà soát, rút kinh nghiệm, chuẩn hoá quy trình, bộ công cụ nhận định, đánh giá để thúc đẩy việc thực hiện.

Mặc khác, để đáp ứng yêu cầu của Quốc hội về việc báo cáo tình hình tham nhũng tại kỳ họp tháng 10 hàng năm, Thanh tra Chính phủ sẽ có hướng dẫn để bảo đảm từ năm 2016, các bộ, ngành, địa phương sẽ chủ động triển khai, hoàn thành và kịp thời báo cáo kết quả nhận định, đánh giá hàng năm theo đúng yêu cầu của Quốc hội. Thanh tra Chính phủ cũng sẽ tăng cường công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên và sẽ kiến nghị xử lý nghiêm đối với những trường hợp thiếu trách nhiệm trong việc nhận định tình hình, đánh giá, báo cáo kết quả công tác PCTN.

Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ cũng đã có tiếp xúc, thảo luận với Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thông qua cơ chế thực thi Công ước liên hợp quốc về chống tham nhũng để tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế về nhận định, đánh giá tình hình tham nhũng. Theo giới thiệu của UNDP thì bộ công cụ mà Hàn Quốc đang sử dụng có nhiều ưu điểm, có thể nghiên cứu để áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Dự kiến trong năm 2016, UNDP sẽ có hỗ trợ kỹ thuật để giúp Việt Nam nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và phát triển bộ công cụ nhận định đánh giá hiện nay, tiến tới có thể phân loại, xếp hạng về tình hình tham nhũng và hiệu quả công tác PCTN của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan; chỉ rõ được những nơi làm tốt, nơi làm chưa tốt công tác PCTN trong thời gian tới./.

Thanhtra.gov.vn


VIDEO